QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐỐI TÁC, ĐỐI TƯỢNG TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI TÌNH HÌNH MỚI HIỆN NAY

Xác định đối tác, đối tượng của mạng Việt Nam là quan điểm mang tính nguyên tắc trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc;là định hướng quan trọng trong đường lối đối nội, đối ngoại.Khicục diện thế giới, khu vực có những biến động khó lường, làm tăng tính phức tạp, nhạy cảm của việc xác định đối tác, đối tượng; đã trực tiếp đặt ra yêu cầu phảitiếp tục quán triệt sâu sắc, nhận thức rõ quá trình phát triển tư duy của Đảngvà vận dụng linh hoạt vào thực tiễn là vấn đề có ý nghĩa thiết thực hiện nay.

Xác định đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế luôn là vấn đề nhạy cảm, quan trọng đối với các quốc gia - dân tộc. Trong hơn 35 năm đổi mới đất nước, việc nhận diện đối tác, đối tượng, xử lý mối quan hệ giữa đối tác, đối tượng luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng. Đây chính là cơ sở để Việt Nam hoạch định đường lối đối ngoại, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

Cán bộ Đại sứ quán tại Mỹ và Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc đón Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đến thành phố New York (Mỹ), bắt đầu chương trình tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 76 và thực hiện một số hoạt động song phương bên lề phiên họp

Đối tác trong quan hệ quốc tế giữa các quốc gia là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ cộng tác, hợp tác nhưng ở mức độ cao hơn và cụ thể hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tham gia vào quá trình hội nhập, liên kết, vì chính sự phát triển của đất nước mình. Do đó, đối tác có thể hiểu là thuật ngữ chỉ mối quan hệ cộng tác, hợp tác, liên kết, phối hợp với nhau giữa hai hay nhiều bên để cùng hành động, hỗ trợ lẫn nhau thực hiện mục tiêu chung hay tương đồng của các bên. Tùy từng mức độ quan hệ mà chia thành các cấp độ khác nhau, như đối tác song phương, đối tác khu vực, đối tác quan hệ đặc biệt, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện…

Đối tượng là thuật ngữ chỉ mối quan hệ đối kháng, đối chọi, chống đối, thù địch nhau… gây bất lợi cho việc bảo đảm lợi ích của các bên tham gia vào hoạt động nào đó. Đối tượng cũng có những quy mô, phạm vi, cấp độ khác nhau. Đối tượng của toàn nhân loại, của mỗi quốc gia, trong mỗi lĩnh vực, trong mỗi thời gian, địa điểm với những quan điểm, động thái cụ thể khác nhau.

Trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, việc xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù”, là sự tiếp nối chính sách đối ngoại nhất quán đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Tư tưởng hòa hiếu, thêm bạn, bớt thù của ông cha ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng linh hoạt trong chính sách đối ngoại sau này.

Mười năm trước đổi mới (1976 - 1986), mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là ưu tiên hàng đầu trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam, trong đó Liên Xô là “bạn đồng minh hùng mạnh và vững chắc nhất của Việt Nam”, là các nước Lào, Cam-pu-chia, các nước trong cộng đồng XHCN, các nước Á-Phi, Mỹ La-tinh, là các phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào Không liên kết, các lực lượng cách mạng trên thế giới. Các đối tượng cần phải đấu tranh trong quan hệ quốc tế là các nước đế quốc, tư bản.

Có thể thấy, sự phân định đối tác, đối tượng của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới phản ánh bối cảnh lịch sử lúc đó, khi trật tự thế giới hai cực phân tuyến bạn - thù, ta - địch, Đông - Tây rõ ràng. Do vậy, việc đánh giá về đối tác - đối tượng của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng bởi tư duy ý thức hệ. Đến Đại hội VI của Đảng (năm 1986) và nhất là từ Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta đã kịp thời đổi mới tư duy, xác định đúng đắn tầm quan trọng của quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng cùng khu vực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư duy về đối ngoại đa phương của Đảng được định hình ngày một rõ nét, phát triển có hệ thống và liên tục được hoàn thiện.

Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 20-5-1988, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới” là văn kiện đầu tiên của Đảng mang ý nghĩa nền tảng cho chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa”; đồng thời thể hiện một bước chuyển mạnh mẽ trong tư duy và mục tiêu đối ngoại của Việt Nam, chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng tồn tại hòa bình. Nghị quyết này đánh dấu bước chuyển chiến lược về tư duy bạn - thù, là tiền đề để Đại hội VII của Đảng chính thức khẳng định phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ đối ngoại.

Bước chuyển đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta xuất phát từ các yếu tố:

Trước hết, nhu cầu đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam với các nước. Trước Đại hội VI của Đảng, Việt Nam rơi vào khủng hoảng toàn diện về kinh tế - xã hội; đất nước bị bao vây, cô lập; quan hệ với Trung Quốc chưa được cải thiện. Để thoát khỏi tình thế hiểm nghèo, Đảng ta đã quyết định tiến hành đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, từng bước khai thông quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc giải quyết vấn đề Campuchia năm 1989 đã giúp Việt Nam gạt bỏ trở ngại quan trọng trong quá trình tìm kiếm thêm bạn bè và trên thực tế đã tạo sự xoay chuyển căn bản trong quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam. Hơn nữa, trong hoàn cảnh hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đang gặp khó khăn, ngoài nhu cầu thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận, Việt Nam còn có thêm nhu cầu mở rộng quan hệ với cả các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Tuyên bố của Đại hội VII (năm 1991): Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, là sự khẳng định mong muốn đó.

Thứ hai, tình hình thế giới, khu vực cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã tác động sâu sắc đến việc đổi mới tư duy của Đảng về quan niệm đối tác - đối tượng. Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh tạo ra những điều kiện khiến xu thế hòa dịu, hòa hoãn trở nên chiếm ưu thế trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới; tạo những tiền đề cho sự hình thành xu thế đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập khu vực và quốc tế. Một trật tự thế giới mới theo hướng đa cực đã dần hình thành. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ đã tạo ra những thay đổi lớn trong đời sống quốc tế. Toàn cầu hóa trở thành một xu thế tất yếu, khách quan mà không một nước nào trên thế giới có thể đứng ngoài lề nếu không muốn bị tụt hậu.

   Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung (giữa bên trái) và đại diện ngoại giao các nước

Thứ ba, những biến động to lớn từ sự thay đổi chế độ xã hội ở một loạt nước Đông Âu và Liên Xô, dẫn tới phá vỡ cục diện hai phe, hai cực, các nước lớn chủ trương tăng cường hợp tác và chủ động cải thiện quan hệ với nhau; đều tìm kiếm cơ hội riêng cho mình trong bối cảnh mới, tránh xung đột, đối đầu. Một số khuôn khổ hợp tác đã được hình thành, được sử dụng để chế ngự phát sinh mâu thuẫn và xung đột lợi ích mới.

Thứ tư, khu vực châu Á - Thái Bình Dương có những thay đổi tích cực theo hướng thiết lập và tăng cường liên kết, mở rộng hợp tác để phát triển; xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, giải quyết các xung đột bằng biện pháp hòa bình ngày càng trở nên rõ nét.

Tất cả những yếu tố trên đây là những điều kiện để từ đó Việt Nam có những bước đổi mới tư duy đối ngoại, triển khai đường đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, trong đó có đổi mới tư duy về đối tác - đối tượng.

Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (năm 2003) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã khái quát thành nguyên tắc, thể hiện cách nhìn nhận mới và thống nhất về đối tác, đối tượng, đã đưa ra một số phương châm chỉ đạo trong việc xác định đối tác - đối tượng, cụ thể là: Phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch chống đối, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới.

Mười năm sau, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” (năm 2013) đã đưa nguyên tắc trên thành quan điểm: Đối tác là những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác. Tuy  nhiên, trong đối tác cần phân rõ thành các nhóm để có chủ trương và sách lược quan hệ, hợp tác. Đối tượng là “bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”.

Trên cơ sở nhận thức về đối tác, đối tượng ngày càng sáng rõ, linh hoạt, uyển chuyển, biện chứng hơn, Nghị quyết số 28-NQ/TW nhấn mạnh cần có cách nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối tượng. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển đảo, nhất là ở Biển Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, việc xác định rõ đối tác, đối tượng là cơ sở để xác định đường lối đối ngoại cụ thể, phù hợp tình hình.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tham dự Diễn đàn An ninh khu vực (ARF) lần thứ 28 theo hình thức trực tuyến

Từ chỗ phân định rạch ròi theo khái niệm “địch - ta”, Đảng ta chuyển sang cách tiếp cận biện chứng, sang tư duy đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc; thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác; xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế; đồng thời, đấu tranh với đối tượng, với mặt đối tượng. Phương châm “đối tác - đối tượng” là cơ sở để xử lý một cách hiệu quả các quan hệ lợi ích đa chiều, phức tạp hiện nay. Khi đã là bạn, là đối tác tin cậy với các nước, để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, cần nhận thức rõ trong đối tác có đối tượng và trong đối tượng có đối tác. Phương châm này giúp ta tận dụng cơ hội hợp tác; đồng thời, thấy rõ hơn sự khác biệt về lợi ích để tìm các giải pháp đưa quan hệ phát triển, không bỏ lỡ cơ hội hợp tác nhưng cũng không lơ là, mất cảnh giác. Đây cũng là một định hướng quan trọng để nhiệm vụ đối ngoại gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Lường Thị Pó - Trần Thuỳ Trang - Khoa LLCT

 

DKTS

Cán bộ tư vấn

Mr. Hạnh 0982.790924
Mr. Bình 0989.465017
Mr. Giao 0374.815299
Mr. Bằng 0988.265268
Mr. Hải 0963.892678
Mrs. Thúy 0988.384555
Mr. Thọ 0972 141 081
Mrs. Yến 0982.628428
Mss. Dương 0977.631986
Mss. Phương 0348.671196

Lượt truy cập

1440693

      Trang web hiện có: 271 khách

Liên kết web

banner gdnn  

so lao dongthuong binh va xa hoi tinh vinh phuc 20170715